
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, trực tiếp là Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, lực lượng Kỹ thuật hình sự đã và đang phát huy truyền thống vẻ vang, không ngừng học tập, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu, công hiến sức mình để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, kế tục sự nghiệp vẻ vang của các thế hệ cha anh đi trước.
Ngày 19/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội cùng với thiết lập chính quyền cách mạng, các tổ chức đầu tiên của lực lượng Công an nhân dân (CAND). Ngay những ngày đầu cách mạng Tháng Tám mới thành công, để bảo vệ chính quyền cách mạng và nhân dân, một bộ phận cán bộ chiến sỹ Công an chiếm lĩnh phòng hồ sơ, bộ phận căn cước của Sở Liêm phóng nhanh chóng khai thác, phục vụ công tác bảo vệ và giữ gìn chính quyên cách mạng non trẻ. Những tổ chức KTHS đầu tiên là các phòng (ban) căn cước nằm trong Sở Liêm phóng, Sở Cảnh sát Bắc bộ, sở Trinh sát Trung bộ, Quốc gia tự vệ cuộc Nam bộ và các ty Trinh sát trong cả nước; thực hiện nhiệm vụ quản lý, khai thác tài liệu trong tàng thư căn cước thu được của chính quyền cũ để phục vụ cách mạng, tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và giám định dấu vết đường vân trong các vụ án.
Mặc dù số lượng cán bộ ít, trình độ còn hạn chế; phương tiện, thiết bị phục vụ công tác còn hết sức thô sơ, các cán bộ KTHS đã giúp cho lực lượng Công an non trẻ phát hiện hàng trăm tên mật thám, tình báo, phản động và bọn quan lại có nợ máu với nhân dân; cung cấp nhiều tài liệu, thông tin quan trọng phục vụ cho cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (tháng 01/1946).
Nhằm củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng, ngày 21/02/1946, Hồ Chủ tịch ra sắc lệnh số 23/SL về hợp nhất Sở Liêm phóng và Sở Cảnh sát và ngày 18/4/1946 Bộ Nội vụ ban hành Nghị định 121/NĐ quy định hệ thống tổ chức bộ máy của lực lượng Công an từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, từ Nha Công an Trung ương đến Sở Công an Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Ty Công an các tỉnh đều có bộ phận căn cước. Phòng Căn cước, Nha Công an Trung ương (tiền thân của Viện Khoa học hình sự ngày nay) được ra đời từ đó; thực hiện nhiệm khai thác tàng thư căn cước của chính quyền cũ để lại, truy tìm những đối tượng đã có tiền án, tiền sự; tổ chức khám nghiệm hiện trường, chụp ảnh hiện trường, chụp ảnh tử thi …các vụ án hình sự phục vụ công tác giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ chính quyền cách mạng trong những năm đầu giành được độc lập. Đây là các hoạt động đầu tiên về công tác kỹ thuật hình sự của lực lượng Công an nhân dân trong những năm đầu bảo vệ chính quyền cách mạng.
Trong 02 năm 1948, 1949, Nha Công an Trung ương đã xuất bản 03 tập Sách "Khoa học Công an" phục vụ công tác huấn luyện, giảng dạy về công tác KTHS. Mặc dù nội dung các tập tài liệu còn đơn giản, song đó là tài liệu nghiên cứu, học tập, tham khảo vô cùng quý giá, phác thảo những "nét vẽ" mở đâu về khoa học dấu vết, tả dạng người và điểm chỉ.

Trong 09 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Nha Công an Trung ương, bộ phận tàng thư căn cước đã thay đổi địa điểm sơ tán nhiều lần ở chiên khu Việt Bắc và ATK. Với ý chí cách mạng kiên cường, tinh thần trách nhiệm cao, cán bộ và nhân viên căn cước cùng cán bộ chiến sỹ lực lượng Công an đã bảo vệ tốt tài liệu, tăng cường phòng gian bảo mật, bảo vệ chính quyền, phát hiện kịp thời những tên việt gian, phản động đang tìm cách chui sâu vào nội bộ ta để chống phá cách mạng.
Hòa bình lập lại, cán bộ Phòng Căn cước đã chuyên toàn bộ hồ sơ, phương tiện nghiệp vụ về trụ sở mới tại Hà Nội an toàn và nhanh chóng thu dọn, sắp xếp tài liệu, khai thác hồ sơ, tài liệu của địch để lại phục vụ cho công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của lực lượng CAND.
Năm 1954, Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, Pháp rút khỏi Đông Dương, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam. Cách mạng Việt Nam bước sang một thời kỳ mới, tiến hành song song hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Lúc này, đòi hỏi lực lượng Công an trong đó có lực lượng KTHS cần phải có những chuyển biến mới cả về lực lượng và chuyên môn nghiệp vụ mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, lực lượng KTHS đã làm tốt công tác theo dõi lý lịch tư pháp, căn cước của bị can và những đối tượng nghi vấn để làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý các đối tượng lưu manh chuyên nghiệp, đối tượng phản cách mạng và những phần tử xâu đang tìm cách xâm nhập vào cơ quan, chính quyền các cấp; giúp các cơ quan tư pháp có đủ căn cứ khi truy tố, xét xử; giúp Công an và nhân dân có cơ sở truy bắt những kẻ bị giam, vượt ngục, lẩn trốn...
Để nâng cao vai trò của lực lượng KTHS trong công tác Công an, ngày 23/8/1951, Bộ Công an đã tổ chức Hội nghị KTHS toàn quốc lần thứ nhất và ban hành Nghị quyết về công tác KTHS. Lần đầu tiên, công tác KTHS được ghi nhận là một trong những biện pháp nghiệp vụ có vai trò quan trọng trong công tác của ngành Công an, những khái niệm khoa học cơ bản của KTHS như: khám nghiệm hiện trường, phân tích, nghiên cứu, đánh giá dấu vết, giám định dấu vết, giám định chữ viết,... được sử dụng trong các văn bản chính thức của lực lượng Công an. Nghị quyết là tiền đề quan trọng để lực lượng KTHS xây dựng và phát triển trong những năm tiếp theo.



Trước yêu cầu ngày càng cao của công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, nhiệm vụ của lực lượng KTHS ngày một tăng lên, theo đó sẽ tập trung xây dựng tàng thư danh chỉ, quản lý chỉ điểm hành chính, điểm chỉ can phạm, tập trung án tích, phát hiện tiền án, tiền sự để cung cấp cho chấp pháp và tòa án tiện việc xét xử; chụp ảnh các vụ án, tài liệu mật, các can phạm, xây dựng tàng thư phim các loại; huấn luyện các lớp cấp giấy chứng minh, quản lý giấy chứng minh và danh chỉ những người đã được cấp giấy chứng minh. Điều này đòi hỏi cơ cấu tổ chức, lực lượng KTHS phải được củng cố, tăng cường, phát triển tại Phòng Căn cước ở Trung ương và các tổ (đội) căn cước thuộc Phòng Trị an ở các Sở, Ty Công an. Như vậy, từ năm 1958 công tác khám nghiệm hiện trường, giám định dấu vết và phân loại điểm chỉ chính thức được tố chức thành một khối.
Đến đầu những năm 60, hệ lực lượng KTHS đã được triển khai đến Công an cấp tỉnh. Ở cấp bộ, Phòng Kỹ thuật khoa học hình sự thuộc Cục Kỹ thuật nghiệp vụ với nhiệm vụ thực hiện công tác KTHS phục vụ đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm an ninh trật tự. Cán bộ làm công tác KTHS, KTHS Công an các tỉnh cũng được biên chế thành các tổ (đội) trong ban trinh sát, Phòng Trinh sát kỹ thuật hoặc trực thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo các sở, ty Công an.
Được sự quan tâm của Lãnh đạo Bộ Công an, đầu những năm 60, nhiều cán bộ đang công tác ở các ngành ngoài Công an và sinh viên xuất sắc tốt nghiệp các trường trung cấp, đại học ở trong nước đã được tuyển chọn về công tác tại Phòng Kỹ thuật khoa học hình sự. Các bộ môn như: nghiên cứu giám định hóa học, sinh vật học, pháp y và giám định kỹ thuật cơ điện... bắt đầu được xây dựng, đánh dấu bước phát triển mới về KTHS của CAND. Trong 05 năm từ năm 1958 đến năm 1962, lực lượng kỹ thuật hình sự đã phối hợp giải quyết 29.098 vụ trộm, 555 vụ giết người, 109 vụ cướp, 348 vụ hiếp dâm...
Vai trò, vị trí của lực lượng KTHS trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn xã hội ngày càng được nâng lên, đặc biệt là trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Để xác định địa vị pháp lý của công tác KTHS trên lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự của đất nước, ngày 02/4/1963, Bộ trưởng Bộ Công an ký ban hành Chỉ thị số 01/P3/C39 về tăng cường công tác KTHS. Đây là Chỉ thị đầu tiên của Bộ Công an về công tác KTHS và là dấu mốc quan trọng đánh dấu quá trình phát triển của lực lượng, là tiền đề cho sự phát triển của lực lượng KTHS ở Trung ương và địa phương miền Bắc trong những năm 1960 -1970.
Theo đó, lực lượng KTHS ở Bộ và các địa phương đã được tăng cường cả về số lượng và tổ chức; thành lập tổ bộ môn KTHS thuộc khoa nghiệp vụ cơ bản tại Trường Sỹ quan Trung ương - C500 (nay là Học viện An ninh nhân dân).
Để có thể áp dụng tốt tri thức khoa học và công tác KTHS, hàng trăm lượt cán bộ Công an ưu tú đã được Bộ cử đi đào tạo về khoa học hình sự tại Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức. Ở trong nước, Bộ Công an cũng mở lớp đào tạo cho hơn 300 cán bộ chuyên về công tác khám nghiệm hiện trường. Nhiều phương tiện, thiết bị nghiệp vụ phục vụ cho công tác KTHS từ các nước Liên Xô, Trung Quốc, Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc., được viện trợ cho lực lượng Kỹ thuật hình sự, góp phần nâng cao đáng kể chất lượng công tác.
Trong 10 năm (1960-1969), lực lượng KTHS tham gia khám nghiệm 2.132 vụ án; tiến hành giám định 4.525 vụ việc các loại; tham gia phá 157 toán biệt kích, 3.272 vụ phản động các loại, phát hiện và thu lượm được nhiều dấu vết, vật chứng có giá trị, cung cấp nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho công tác điều tra. Nhiều kết luận là chứng cứ quan trọng phục vụ công tác điều tra và xét xử tội phạm.

Ngày 19/5/1978 Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Quốc Hoàn đã ký Quyết định số 77 và Quyết định số 78 NV/QĐ về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện Khoa học hình sự có chức năng giúp Bộ trưởng lãnh đạo các lực lượng, các cấp trong toàn ngành Công an thực hiện các chủ trương, biện pháp công tác kỹ thuật khoa học hình sự để tiến hành đấu tranh chống bọn phản cách mạng và các bọn tội phạm khác; tổ chức việc nghiên cứu khoa học và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực khoa học hình sự trong ngành Công an nhằm phục vụ cho công tác và chiến đấu, góp phần tích cực vào việc bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn phát biểu giao nhiệm vụ tại lễ ra mắt Viện Khoa học hình sự (1978)
Viện Khoa học hình sự được thành lập khẳng định sự lớn mạnh của lực lượng KTHS Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng CSND nói riêng, lực lượng CAND nói chung trong giai đoạn cách mạng mới. Với chức năng vừa trực tiếp chiến đấu, vừa nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào công tác đầu tranh phòng, chống tội phạm, từng bước xây dựng và phát triển lý luận khoa học hình sự xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam... đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho toàn lực lượng KTHS trong cả nước.
Từ đây, lực lượng KTHS đã có một cơ quan trung ương có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thống nhất về nghiệp vụ, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và trang bị phương tiện kỹ thuật cho toàn lực lượng; đồng thời có điều kiện thuận lợi để phát triển hợp tác với các cơ quan KTHS trên thế giới, nhất là với các nước Xã hội chủ nghĩa.
Để công tác KTHS được thống nhất từ trung ương đến địa phương, ngày 10/7/1981, Bộ Nội vụ đã ký ban hành các quyết định thành lập các Phòng KTHS; Phòng KTHS và Điều tra xét hỏi cho 21 Công an tỉnh, thành phố, hoạt động chuyên môn nằm dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của Viện Khoa học hình sự và được trang bị phương tiện thống nhất; tiến dần tới hoàn thiện mô hình tổ chức từ trung ương tới địa phương.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn của Viện Khoa học hình sự, lực lượng kỹ thuật hình sự tại nhiều địa phương đã dần dần được củng cố về tổ chức, tự đảm nhận tốt công tác khám nghiệm hiện trường và một số lĩnh vực giám định dấu vết truyền thống như giám định cơ học, súng đạn, giám định đường vân, giám định tài liệu... Một số địa phương đã triển khai được các lĩnh vực giám định khoa học tự nhiên như giám định sinh học, giám định pháp y... tham gia giải quyết được nhiều vụ án, vụ việc góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và bảo vệ trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Bộ trưởng Phạm Hùng đến kiểm tra công tác của Viện Khoa học hình sự tại Tam Đảo, Vĩnh Phú (1982)

Đồng chí Thứ trưởng Hoàng Thao kiểm tra công tác tại Viện Khoa học hình sự (1979)
Đồng chí Lê Quốc Thân và đồng chí Thứ trưởng Bộ Nội vụ Cộng hòa dân chủ Đức thăm quan phòng thí nghiệm hóa nhân dịp lễ khánh thành trụ sở làm việc của Viện Khoa học hình sự tại Tam Đảo, Vĩnh Phú (1978)
Tháng 9/1984, đồng thời với việc thành lập Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I, Khoa KTHS được thành lập có nhiệm vụ đào tạo cán bộ KTHS có trình độ cao đẳng và trung cấp, góp phần bổ sung đội ngũ cán bộ có chuyên môn chuyên ngành cho lực lượng KTHS. Ngày 11/11/1986, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 5109/QĐ-BNV thành lập Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp cho lực lượng KTHS giải quyết được những khó khăn, vướng mắc của lực lượng trong giúp đỡ, chỉ đạo công tác của Công an các tỉnh, thành phố phía Nam.
Tháng 5/1990, Bộ Nội vụ đã ban hành Chỉ thị về việc củng cố và tăng cường KTHS Công an cấp huyện, là cơ sở để xây dựng hoàn chính đội ngũ cán bộ kỹ thuật hình sự cấp huyện, để từng bước tiến hành phân câp công tác, ngày càng đáp ứng tốt các yêu cầu chiến đấu tại địa phương. Tiếp đó, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng KTHS Công an các tỉnh, thành phố được quy định cụ thể, giúp cho lực lượng KTHS Công an cấp tỉnh tháo gỡ được những khó khăn trong việc chỉ đạo công tác, nhất là công tác khám nghiệm hiện trường, nâng cao hiệu quả và vai trò của công tác KTHS trong điều tra, phòng ngừa và phát hiện tội phạm tại địa phương.
Cụ thể hóa Chỉ thị số 02/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác KTHS, ngày 15/12/1993 Bộ trưởng Bộ Nội vụ Bùi Thiện Ngộ đã ký ban hành Chỉ thị số 23/CT-BNV về tăng cường công tác KTHS. Chỉ thị đã nêu những yêu cầu cụ thể về các mặt từ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị đến kiện toàn hệ thống tổ chức, từ đào tạo cán bộ đến trang bị phương tiện cũng như trách nhiệm của các cơ quan liên quan... phấn đấu đến năm 2000 phải củng cố và phát triển cho được lực lượng KTHS đủ sức hoàn thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đây là cơ sở để kiện toàn đội
ngũ cán bộ và xây dựng đề án trang bị phương tiện kỹ thuật phục vụ cho toàn lực
lượng cả trước mắt và lâu dài;
mở ra một thời kỳ phát triển mới cho công tác kỹ thuật hình sự trong cả nước -
thời kỳ hội nhập và phát triển.
Bước sang 02 thập niên đầu của thế kỷ XXI, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ Công an, lực lượng KTHS tiếp tục được kiện toàn có nhiều đóng góp trong sự nghiệp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Viện Khoa học hình sự gồm có các Phòng, Trung tâm và 02 Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Lực lượng KTHS đã vận dụng sáng tạo các phương pháp khám nghiệm phù hợp với từng hiện trường vụ an, qua đó phát hiện thu thập được nhiêu dâu vêt, vật chứng, đưa ra những nhận định phù hợp giúp cơ quan điều tra nhanh chóng xác minh giải quyết vụ án. Công tác giám định được tiến hành rất khẩn trương, nhanh chóng đưa ra kết luận phục vụ hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử. Công tác kỹ thuật phòng, chống tội phạm được đẩy mạnh, phát huy vai trò, tác dụng của biện pháp này trong đấu tranh chống tội phạm. Thông qua kết quả công tác KTHS phát hiện nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm, phương thức, thủ đoạn gây án, những sơ hở, thiếu sót trong phòng ngừa tội phạm, để kiến nghị, đề xuất giải pháp đấu tranh.
Triển khai 10 chuyên ngành giám định kỹ thuật và giám định pháp y, trong đó nhiều chuyên ngành hẹp, khó từ đó nghiên cứu tìm ra các giải pháp nghiệp vụ, phục vụ hiệu quả công tác giám định và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chất lượng công tác khám nghiệm ngày càng được nâng lên; nhiều vụ án, vụ việc được nhanh chóng điều tra làm rõ trên cơ sở kết quả công tác khám nghiệm hiện trường.


Cộng tác viên